Bệnh bạch lỵ là bệnh lây truyền trên gà con dưới 3 tuần tuổi. Bệnh này do vi khuẩn Salmonella Pullorum gây nên. Đặc trưng của bệnh là gà ỉa phân trắng và bết dính xung quanh hậu môn. Các cơ quan nội tạng xuất hiện nhiều vết loét màu trắng xám. Bệnh bạch lỵ phổ biến khắp nơi. Gà hay các giống chim khác có tính kháng bệnh cao. Càng lớn, gà sẽ có tính kháng bệnh cao hơn. Tuy nhiên, chúng lại trở thành loài trùng. Xem thêm cách phòng bệnh ở gà tại sv388 Nguyên nhân Bệnh bạch lỵ do vi khuẩn Salmonella Pullorum gây ra. Có 3 thể kháng nguyên và độc lực bằng nhau. Hai yếu tố quan trọng gây ra bệnh là gà con bị chết và dinh dưỡng kém. Vi khuẩn có thể sống ngoài môi trường nhiều tháng. Tuy nhiên, chúng mẫn cảm với các loại thuốc khử trùng. Đường lây truyền bệnh bạch lỵ – Bạch lỵ lây truyền theo hai đường: qua trứng (lây truyền trực tiếp). Hoặc qua đường tiêu hoá, thức ăn và nước uống (lây truyền chéo). – Truyền chéo đặc biệt nguy hiểm khi nhiễm bệnh ở gà bố mẹ mang trùng. Trứng bệnh, gà bệnh và mang trùng có thể phân tán mầm bệnh ở gà. Vi khuẩn Salmonella Pullorum có thể xâm nhập qua vỏ trứng từ trong máy ấp trứng ra ngoài. – Bệnh lây theo đường hô hấp, thực phẩm và nước uống nhiễm khuẩn. Khi gà mổ đẻ và ăn trứng gà bệnh. Virus lây truyền qua phân, khay trứng, vật nuôi, chất độn chuồng trại. Hoặc thông qua ruồi muỗi, gián, côn trùng, chim non, con người. .. Triệu chứng Khi nhiễm bệnh, gà ỉa phân trắng và phân dính bết vào hậu môn. Tỷ lệ gà chết vì bị bệnh bạch lỵ cao tới 100%. Tỷ lệ nở của trứng nhiễm bệnh thấp. Phôi bị ngạt sẽ chết lúc 18-19 ngày tuổi. Nếu nở được thì gà con nở sẽ vô cùng yếu ớt và chết từ từ. Triệu chứng của bệnh bạch lỵ phụ thuộc vào từng yếu tố. Như là tuổi gà, mức độ điều trị bằng kháng sinh và mức độ nhiễm khuẩn. Xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn theo máu vào các cơ quan gây bệnh. Gà chết bắt đầu lúc 4 ngày tuổi, nhiều nhất vào ngày thứ 5 và giảm dần vào ngày thứ 8. Gà bệnh biểu hiện lờ đờ, giảm hay chán ăn, rụng tóc nhiều hoặc khoanh lại một chỗ. Gà chết nếu không điều trị bằng kháng sinh. Có khi không dùng kháng sinh thì tỷ lệ chết là 5-15%. Gà khỏi bệnh bị tác động nhiều về sức lớn và năng suất. Gà lớn không có biểu hiện của bệnh. Tuy nhiên tỷ lệ sinh sản và ấp nở giảm đáng kể. Bệnh tích Ngay sau khi nở, gà chết. Bệnh tích không điển hình, chỉ có gan và phổi xuất huyết. Gà 4-7 ngày tuổi có nhiều vết hoại tử trắng li ti ở gan, thận, tim, phổi. Lách sưng, thận phù nề, lòng đỏ không tan. Niệu quản chứa nhiều urat màu trắng, thành bụng dày, viêm phúc mạc.Bạn đang xem Bệnh bạch lỵ trên gà là gì? Cách phòng trị bệnh như thế nào? Phòng và trị bệnh bạch lỵ – Cho gà con mới mua về uống BIO-TETRA.COLIVIT hoặc BIO-AMCOLI PLUS. Thuốc này giúp phòng bệnh từ 3-5 ngày. Trong quá trình nuôi mỗi tuần dùng một đợt kháng sinh 2 ngày để phòng bệnh. – Chuồng trại, dụng cụ nuôi và máy ấp cần khử trùng kĩ lưỡng. Trứng vịt ấp cần tươi. Nếu trứng chết phải ngâm vào thuốc sát trùng BIOXIDE với liều 1ml hoà vào trong 1 lít nước sạch. Sau đó mới đem đi ấp. – Dùng phản ứng máu để xét nghiệm cả đàn gà con. Từ đó loại bỏ những con gà có trùng. – Gà con được nuôi tách biệt với gà lớn. – Phòng bệnh cho gà khi biến đổi khí hậu. Sử dụng những kháng sinh như BIO-ENRO C, BIO-TYLODOX PLUS hoặc BIO-GENTATRIM. Thỉnh thoảng cung cấp thêm cho gà vitamin như BIO-VITAMIN C 10% và BIO-ELECTROLYTES. Điều này giúp tăng cường sức đề kháng và ngăn ngừa stress ở gà. – Dùng một trong những kháng sinh có hiệu quả cao nhất BIO-ENROFLOXACIN 10% ORAL hoặc BIO-AMPICOLI MAX. – Nên dùng thêm BIO-VITA-ELECTROLYTES giúp tăng cường sức đề kháng và chống mất nước. Xem thêm:Tìm hiểu về bệnh viêm não tuỷ ở gà (AE) và phương pháp phòng bệnhPhát hiện triệu chứng và xử lý bệnh ORT trên gàGà đồi Yên thế là giống gà giúp nông dân thoát đói nghèo